Nguyên tắc sử dụng huyệt P3

Ngày: 17/06/2019 lúc 15:32PM

Sách 'Pathogéni Et Pathologie En Ergetiqués En Médecine Chinoise' hướng dẫn:

SỬ DỤNG NGŨ DU HUYỆT CÓ THỂ DỰA VÀO 3 YẾU TỐ SAU:


a.1) Theo Vị Trí Bệnh Chứng

* Bệnh có thể ở :
+ Phần Lý: ở Tạng là Âm, ở Phủ là Dương, vì vậy thiên ‘Thọ Yểu Cương Nhu’ (LKhu 6) có nhắc đến trường hợp tà khí ở phần Âm trong Âm hoặc Dương trong Âm...
+ Phần Biểu: ở bì phu thuộc Dương, gân xương thuộc Âm, vì vậy thiên ‘Thọ Yểu Cương Nhu’ (LKhu 6) có nhắc đến trường hợp tà khí ở phần Dương trong Dương hoặc Âm trong Dương...
Vì vậy, thiên ‘Thọ YểuCương Nhu’ ghi:
(“Cho nên mới nói rằng nếu Âm bệnh ở tại Âm phận [tà khí ở Tạng] thì châm huyệt Huỳnh (Vinh) và huyệt Du thuộc Âm...” (LKhu 6, 6), tức là huyệt Huỳnh và huyệt Du của đường kinh liên hệ với Tạng đó.
(“Cho nên mới nói rằng nếu Âm bệnh ở tại Dương phận [tà khí ở gân xương] thì châm huyệt Kinh thuộc Âm...” (LKhu 6, 6) tức là châm huyệt Kinh của đường kinh vùng bệnh.
(“Cho nên mới nói rằng nếu Dương bệnh ở tại Âm phận [tà khí ở Phủ] thì châm huyệt Hợp thuộc Dương ...” (LKhu 6, 6) tức là châm huyệt Hợp của đường kinh liên hệ với Phủ đó.
(“Cho nên mới nói rằng nếu Dương bệnh ở tại Dương phận (tà khí ở bì phu) thì châm Lạc Mạch...” (LKhu 6, 6). Tức là châm A Thị Huyệt của kinh Cân.

a.2) Theo Nguyên Nhân Gây Bệnh

Thiên ‘Điều Kinh Luận’ ghi: “Phàm bệnh tà sinh ra bởi âm hoặc dương. Do dương thường là do phong, vũ, hàn, thử...(LKhu 62, 50), từ đó, sách 'Pathogéni Et Pathologie En Ergetiqués En Médecine Chinoise' giải thích như sau:

1) Mùa Xuân:

Châm huyệt Tỉnh và A Thị Huyệt của kinh Cân. Ở đây, mùa xuân có ý nghĩa là phần bì phu và là phong khí (khí của mùa xuân). Theo nguyên tắc này thì: Khi nguyên nhân gây bệnh là phong tà (phong hàn, phong táo, phong thử, phong thấp) ở bì phu, phải châm huyệt Tỉnh và A Thị Huyệt của kinh Cân vùng bệnh.
Vì vào mùa xuân, khí Âm của cơ thể, giống như Địa khí hãy còn mạnh, vì vậy khí âm ở trong kinh mạch (TVấn 64, 9). Khí dương của cơ thể giống như Thiên khí, bắt đầu phát triển, vì vậy khí dương ở bì phu, cơ nhục, nghĩa là, trong kinh Cân. Do đó, khí dương ở trong nhánh của kinh Cân và ở huyệt Tỉnh của kinh.
Tà khí xâm nhập vào bì phu, theo khí dương của cơ thể đến huyệt Tỉnh. Nó không thể tiến sâu hơn vì khí Âm hãy còn mạnh trong kinh đó là lý do tại sao vào mùa xuân phải châm huyệt Tỉnh và các lạc mạch (Kinh cân).
Chúng ta có công thức sau: A Thị Huyệt + Tỉnh Huyệt + Huyệt Bổ (Kinh Cân) (Kinh tương ứng)

2) Mùa Hạ: Châm huyệt Du của đường kinh.

Theo nguyên tắc này: khi tà khí của mùa Hạ (Thử khí) ở phần nhục phải châm huyệt Du của đường kinh bệnh.

Giải thích: Vào mùa Hạ, khí của Tâm mạnh nhưng kém hơn dương khí của cơ thể. Khí dương ở mặt ngoài trong mùa xuân, đến mùa hạ thì vào phần nhục và vào kinh, ở huyệt Vinh. Sự xâm nhập này theo con đường bình thường của kinh Cân ở huyệt Tỉnh, rồi vào huyệt Vinh và vào ngay huyệt Du. Vì khí Dương rất mạnh nên nó không chỉ ở kinh

Cân mà còn ở trong Lạc mạch nữa. Từ Lạc mạch, theo đường riêng tà khí xâm nhập vào kinh chính. Sau đó, tà khí theo khí Dương đến và khí dương cũng ở trong đường kinh qua Lạc mạch và kinh Cân. Đó là ý nghĩa câu: “Mùa hạ nên thủ các huyệt Du” (LKhu 2, 119).

3) Mùa Thu:

Thiên ‘Tứ Thời Khí’ ghi: “Mùa thu thủ huyệt Kinh và Du, tà khí ở tại phủ thì thủ huyệt Hợp” (LKhu 19, 5).

Nên nhớ rằng: mùa Thu = Gân cơ.
Khí của mùa Thu = Táo khí.
Và: đầu mùa Thu = Thử Táo
cuối mùa Thu = Phong Táo.

Như vậy ta có công thức sau:

Khi bệnh do Thử Táo hoặc Phong Táo ở gân cơ, phải châm huyệt Kinh và Du của đường kinh bệnh.
Giải Thích: Vào mùa Thu, khí Âm của cơ thể, giống như địa khí, bắt đầu làm chủ, nhưng không hoàn toàn.khí Dương của cơ thể, giống như thiên khí, rất mạnh vào mùa Hạ bắt đầu giảm. Dương khí của cơ thể xâm nhập vào kinh chính qua con đường thông thường ( qua kinh Cân) ở huyệt Kinh. Vì thế có thể xảy ra:
a-Khi vào kinh Âm, dương khí giảm dần ở huyệt Kinh và biến mất ở vùng lân cận (cơ, xương).
b-Khi vào kinh Dương, dương khí tiếp tục tiến về huyệt Hợp và tụ lại trước khi nhập vào trong Phủ, sẽ tản ra vùng lân cận (cơ, xương).
Tà khí theo dương khí ở huyệt Kinh vào huyệt Hợp và có thể vừa ảnh hưởng đến Phủ vừa ảnh hưởng đến gân cơ, xương hoặc tủy. Đó là ý của thiên ‘Tứ Thời Khí’: “Mùa thu thủ huyệt Kinh và Du, tà khí ở tại phủ thì thủ huyệt Hợp” (LKhu 19, 5).

Tại sao lại phải dùng cùng lúc cả 2 huyệt Kinh và Du ?

Vì huyệt Du là cửa ngõ của tà khí và Vệ khí, Châm huyệt Kinh và Du, là để nâng Vệ khí lên, không chỉ là để ngăn cản không cho tà khí tiến vào mà còn để đưa Vệ khí đến vùng bệnh.
Như vậy, đây là công thức quan trọng để trị bệnh ở gân cơ, xương và tủy, nghĩa là bệnh Âm ờ phần Dương.

Ghi Chú: Vào mùa Thu, khi tà khí xâm nhập vào huyệt Kinh:

- Nếu tác động vào kinh Âm: tà khí sẽ chuyển vào vùng lân cận.
- Nếu tác động vào kinh Dương: tà khí sẽ chuyển vào huyệt Hợp.

4) Mùa Đông:
+ Thiên ‘Bản Du’ ghi: “Mùa đông nên thủ huyệt Tỉnh, huyệt Du, đó là vì muốn lưu kim lâu hơn để thủ khí ở sâu hơn (LKhu 2, 121).
+ Thiên ‘Tứ Thời Khí’ ghi: Mùa đông thủ huyệt Tỉnh, Vinh, và tất phải châm sâu mà lưu kim lâu” (LKhu, 19, 6).
+ Thiên ‘Hàn Nhiệt Bệnh’ ghi: mùa đông thủ huyệt Kinh, huyệt Du” (LKhu 20, 33).

Nguyên tắc này có 2 điểm khác biệt:

1-Mùa đông: âm khí làm chủ, ngược lai, mùa hạ dương khí làm chủ.
2-Mùa đông: xương, tủy, khí hàn.

Trường hợp thứ 1 : khi âm khí làm chủ, nó có thể bị phong hàn tấn công gây ra phù thũng. Vì vậy, phải châm huyệt Tỉnh để đưa khí âm vào đường kinh và châm huyệt Vinh để quân bình Âm Dương.

Trường hợp thứ 2 : có thể nói rằng khi phong khí ở xương, châm huyệt Kinh và Du.

Giải Thích: Khí Âm của Thận giữ vai trò chuyển vận thủy dịch đến các bộ phận khác của cơ thể. Thủy dịch này do thức ăn chuyển ra. Nếu thủy dịch thái quá, nó sẽ chuyển xuống hạ tiêu, ở nhị âm (hậu môn và đường tiểu) để tống ra ngoài. Khi Thận suy, thủy dịch từ Vị đến sẽ tàng trữ lại và tràn ra, gây nên phù, trướng nước (nội nhân).
Ngoài ra, thiên ‘Thủy Nhiệt Huyệt Luận’ (T.Vấn 61, 7) cũng nêu lên bệnh chứng phù khác do ngoại nhân. Phương pháp trị liệu chính là phát hãn (làm cho ra mồ hôi). Nếu khi đang phát hãn mà bị phong tà hoặc trúng phong, phong tà xâm nhập vào sâu trong tạng phủ và không đi ra ngoài biểu, sẽ gây ra phù thũng. Điều trị, phải kéo khí âm này xuống hạ tiêu và cho đi vào đường kinh, bằng cách châm huyệt Tỉnh.

Châm huyệt Tỉnh chưa đủ, vì âm khí quá thịnh ở hạ tiêu và vì dương khí đã suy nên Dương khí bị mất. Do đó, phải điều hòa Âm Dương bằng cách làm tăng Dương khí lên qua huyệt Vinh.
Tóm lại: dự phòng và điều trị phù thũng: châm huyệt Tỉnh và huyệt Vinh.

a.3) Theo Triệu Chứng

a- Theo bệnh chứng ở Tạng: Thiên “Thuận Khí Nhất Nhật Phân Vi Tứ Thời’ ghi: “Bệnh ở tại tạng: châm huyệt Tỉnh” (LKhu 44, 26). Cách châm này điều hòa được khí ở bên phải và trái của cơ thể. Phương pháp này áp dụng đặc biệt trong điều trị Kinh Biệt.

b-Theo sắc diện : Thiên “Thuận Khí Nhất Nhật Phân Vi Tứ Thời’ ghi: Bệnh biến ở sắc: châm huyệt Huỳnh” (LKhu 44, 26).

Mỗi Tạng đều có màu sắc biểu hiện: Thiên ‘Ngũ Sắc’ ghi: Màu xanh thuộc về Can, màu đỏ thuộc về Tâm, màu trắng thuộc về Phế, màu đen thuộc về Thận, màu vàng thuộc về Tỳ” (LKhu 49, 65). Đây là các màu sắc không thay đổi. Nếu khi màu sắc thay đỏi ta biết là tạng đó bị bệnh. Và phải áp dụng châm huyệt Vinh.

c-Theo Thời Gian Phát Bệnh: Thiên “Thuận Khí Nhất Nhật Phân Vi Tứ Thời’ ghi: “Bệnh lúc ngưng lúc nặng: châm huyệt Du” (LKhu 44, 26). Mỗi một đợt tấn công của tà khí làm bệnh nặng hơn, do đó phải châm huyệt Du vì huyệt Du thu hút được khí của Vinh, Vệ và tà khí.

d-Theo Biến Đổi Âm Thanh: Thiên “Thuận Khí Nhất Nhật Phân Vi Tứ Thời’ ghi: “Bệnh có thay đổi ở âm thanh: châm huyệt Kinh” (LKhu 44, 26). Thu thập khí là nhiệm vụ của tạng Phế, qua khí quản. Vì vậy bệnh chứng có thể làm âm thanh thay đổi. Trong trường hợp này, châm huyệt Kinh vì: Huyệt Kinh = Mùa Thu = Tạng Phế.

a.4) Theo Mùa Trong phép "Bổ Tả Mẫu Tử "

Theo nguyên tắc này: khi dùng cách ‘Bổ Tả Mẫu Tử’ để điều chỉnh tạng phủ nào đó, phải bổ cho Tạng mà sinh ra nó và tả tạng mà nó sinh ra. Tức là phải biết chọn huyệt Kinh Điển (Ngũ Du) theo mùa, rồi chọn huyệt Mẫu để bổ khi bị hư thường huyệt Tử để tả khi là thực chứng.

Thí dụ: Huyệt Ngũ Du liên hệ với Phế là huyệt Kinh (Kim).

Nếu Phế Thực: châm tả huyệt con của Kinh là huyệt Hợp (Thủy) tức là huyệt Xích Trạch (P.5) [vì Kim (Mẫu) sinh Thủy (Tử)].

Nếu Phế Hư: châm bổ huyệt sinh ra Kinh là huyệt Du (Thổ) tức là huyệt Thái Uyên (P.9) [vì Thổ (Mẫu) sinh Kim (Tử)].

Nguồn: yduochoc.vn

anh sang
BÌNH LUẬN

Tin cùng chuyên mục